Bạn đang tìm gì?

Giỏ hàng

Tương Lai Nào Cho Bệnh Khô Vằn Trên Lúa? Những Sản Phẩm Mới ở VN và Giải Pháp Mới Ở Nước Ngoài

Tương Lai Nào Cho Bệnh Khô Vằn Trên Lúa? Những Sản Phẩm Mới ở VN và Giải Pháp Mới Ở Nước Ngoài

Khô vằn là kiểu bệnh “âm thầm mà ác”: lúc đầu chỉ vài vệt nâu trên bẹ lá, sau bùng lên một vòng ruộng, lúa vừa đổ vừa lép, nông dân than mà không hiểu vì sao “xịt hoài không hết”.

Nhìn vào Danh mục thuốc BVTV mới, ta sẽ thấy bệnh khô vằn được “bao vây” bởi rất nhiều nhóm thuốc: từ thuốc hóa học phối trộn đa bệnh, kháng sinh, cho tới các sản phẩm sinh học – thảo mộc, kích kháng.

Bài này tóm gọn các nhóm thuốc trị khô vằn trong danh mục thuốc khô vằn mới được trình bày dễ hiểu, kèm gợi ý:

  • Nhóm nào là xương sống “đánh nhanh, đánh mạnh”

  • Nhóm nào thiên về sinh học – kháng sinh – thảo mộc, hợp xu hướng “xanh hơn”

 

1. Trong danh mục mới, khô vằn được “chăm sóc” ra sao?

Nếu gom lại các thuốc có ghi rõ khô vằn/lúa trong danh mục thuốc khô vằn mới, ta thấy nổi bật mấy “họ” chính:

Nhóm thuốc hóa học phối trộn đa bệnh

Azoxystrobin + Difenoconazole:

  • Amity top 500SC, 500SG – khô vằn, đạo ôn, lem lép hạt, bạc lá/lúa (500SG cũng có khô vằn/lúa).
    danh mục thuốc khô vằn mới

  • Amistar Top 325SC, Amylatop 325SC, Ara-super 350SC, Anmisdotop 400SC… – đều có chỉ định khô vằn kèm đạo ôn, lem lép hạt trên lúa.
    danh mục thuốc khô vằn mới

Azoxystrobin + Tricyclazole:

  • Staragro 325SC – khô vằn/lúa.
    danh mục thuốc khô vằn mới

Azoxystrobin + Hexaconazole:

  • Anforli 70SC – khô vằn/lúa; 765WG – lem lép hạt/lúa.
    danh mục thuốc khô vằn mới

 

Nhóm Hexaconazole/“zole” phối trộn, đánh thẳng thân – bẹ

  • Hexalazole 300SC – khô vằn, đạo ôn/lúa.
    danh mục thuốc khô vằn mới

  • Newtec 300SC – khô vằn, đạo ôn, lem lép hạt/lúa.
    danh mục thuốc khô vằn mới

  • Avinduc 400SC – đạo ôn, khô vằn, lem lép hạt/lúa.
    danh mục thuốc khô vằn mới

Ngoài ra còn Camilo 150SC, Hextop 150SC: lem lép hạt + khô vằn + đốm nâu/lúa.
danh mục thuốc khô vằn mới

 

Nhóm kháng sinh Validamycin/Jinggangmycin – “chuyên trị khô vằn”

Đây là nhóm có rất nhiều tên thương phẩm, nhưng bản chất đều xoay quanh Validamycin A (Jinggangmycin) – kháng sinh do vi khuẩn Streptomyces tạo ra, chuyên “ăn” nấm khô vằn:

  • Anlicin 5WP/5SL, Asiamycin super 100SL, Avalin 5SL, Damycine 5WP/5SL, Duo Xiao Meisu 3SL/5WP, Fubarin 20WP, Haifangmeusu 5WP/10WG/10SL, Javidacin 5SL/5WP, Jinggangmeisu 5SL/10WP, Limycin 5SL… – đều có chỉ định khô vằn/lúa.
    danh mục thuốc khô vằn mới

Thêm cả “họ Vali- và Viva-” đăng ký trực tiếp cho khô vằn:

  • Valitigi 3SL, Valigreen 50SL/100WP, Valivithaco 3SL/5SC/5WP, Valinhut 5SL, Vallistar 5SL/10WP, Valygold 5SL, Vamylicin 5WP, Vanicide 5SL/5WP, Varison 5WP, Vida 3SC/5WP, V-cin 5SL, Vivadamy 5SL/5SP, Voalyđacyn-nhật 5SL, Yomivil 108SC/115WG… – đều có khô vằn/lúa trong nhãn đăng ký.

 

Nhóm sinh học – thảo mộc – kích kháng có ghi khô vằn/lúa

  • TP-Zep 18EC – tổ hợp dầu màng tang, sả, hồng, hương nhu, chanh; chỉ định đạo ôn, bạc lá, lem lép hạt, đốm sọc vi khuẩn, khô vằn/lúa…
    danh mục thuốc khô vằn mới

  • Bacla 50SC – hoạt chất Acid salicylic, ghi bạc lá, khô vằn/lúa.
    danh mục thuốc khô vằn mới

  • Som 5SL – chứa Acrylic acid + Carvacrol, chỉ định đạo ôn, khô vằn, bạc lá/lúa.
    danh mục thuốc khô vằn mới

  • Stargolg 5SL – ghi khô vằn, bạc lá, lem lép hạt, đạo ôn/lúa.
    danh mục thuốc khô vằn mới

Chỉ nhìn sơ qua đã thấy: khô vằn không phải là “con ghẻ”, mà được bao vây bởi cả thuốc hóa học mạnh tay lẫn thuốc kháng sinh – thảo mộc – kích kháng.

 

2. Nhóm “1 lần phun ăn 3–4 bệnh”: khô vằn + đạo ôn + lem lép hạt

Đây là nhóm rất dễ thuyết phục nông dân, vì: “phun một lần, chữa được nhiều bệnh trên cây lúa”.

Các sản phẩm tiêu biểu trong danh mục:

Amistar Top 325SC, Amylatop 325SC

  • Cùng công thức gốc Azoxystrobin + Difenoconazole, trên nhãn có khô vằn, lem lép hạt, đạo ôn/lúa, thêm các bệnh trên cao su, cà phê, hoa hồng…
    danh mục thuốc khô vằn mới

Amity top 500SC, 500SG

  • 500SC: khô vằn, đạo ôn, lem lép hạt, bạc lá/lúa.

  • 500SG: đạo ôn, khô vằn/lúa.
    danh mục thuốc khô vằn mới

Ara-super 350SC, Anmisdotop 400SC

  • Cùng nhóm Azoxystrobin + Difenoconazole, ghi lem lép hạt, đạo ôn, khô vằn/lúa, kèm nhiều bệnh trên cà phê, hồ tiêu, khoai tây…
    danh mục thuốc khô vằn mới

Staragro 325SC

  • Hỗn hợp Azoxystrobin + Tricyclazole, đăng ký khô vằn/lúa, ngoài ra có nhiều sản phẩm cùng “họ” chuyên đạo ôn.
    danh mục thuốc khô vằn mới

Anforli 70SC

  • Azoxystrobin + Hexaconazole, trong đó 70SC: khô vằn/lúa; 765WG: lem lép hạt/lúa.
    danh mục thuốc khô vằn mới

Góc tư vấn dễ hiểu

Ưu thế:

  • Phù hợp giai đoạn lúa làm đòng – trổ, khi cùng lúc lo khô vằn ở bẹ + đạo ôn cổ bông + lem lép hạt.

  • Nông dân đỡ phải nhớ nhiều loại, chỉ cần 1–2 thương hiệu quen tay.

Lưu ý:

  • Không nên “bám” một nhãn suốt nhiều năm, mà luân phiên giữa các nhóm hoạt chất (có thể thay đổi từ Amistar Top sang Amity top hoặc Staragro, kèm một vụ dùng kháng sinh Validamycin) để tránh hình thành kháng thuốc.

 

3. Nhóm “đánh sát gốc” khô vằn: Hexalazole, Newtec, Avinduc, Camilo, Hextop…

Ngoài nhóm phối trộn đa bệnh, danh mục còn có một “tổ” thuốc chuyên đánh vào thân – bẹ lúa, rất phù hợp khi ruộng đã xuất hiện vết bệnh rõ:

  • Hexalazole 300SC – khô vằn, đạo ôn/lúa, kèm rỉ sắt, thán thư cà phê, bệnh trên cao su, điều.
    danh mục thuốc khô vằn mới

  • Newtec 300SC – khô vằn, đạo ôn, lem lép hạt/lúa.
    danh mục thuốc khô vằn mới

  • Avinduc 400SC – đạo ôn, khô vằn, lem lép hạt/lúa.
    danh mục thuốc khô vằn mới

  • Camilo 150SC, Hextop 150SC – lem lép hạt, khô vằn, đốm nâu/lúa, lại còn có bệnh trên cao su, cà phê, xoài.
    danh mục thuốc khô vằn mới

Những thuốc này thường được mô tả là nội hấp – lưu dẫn, chuyên dùng khi:

  • Ruộng lúa sạ dày, rậm rạp, ẩm kéo dài, bẹ lá đã xuất hiện vết nâu loang có viền, khô từng mảng.

  • Kết hợp giảm phân đạm, tháo bớt nước, để ruộng thông thoáng hơn – nếu không, thuốc tốt cũng khó cứu.

 

4. Kháng sinh Validamycin/Jinggangmycin – “chuyên gia” khô vằn, gần với sinh học

Phần thú vị nhất trong danh mục là một dàn dài thuốc kháng sinh Validamycin/Jinggangmycin, mà nông dân thường gọi chung là “thuốc khô vằn”.

Trên nhãn đăng ký, rất nhiều thương phẩm ghi rõ khô vằn/lúa:

  • Nhóm Anlicin – Asiamycin – Avalin – Damycine – Duo Xiao Meisu – Fubarin – Haifangmeusu – Javidacin – Jinggangmeusu – Limycin… – hầu hết là dạng 5WP hoặc 5SL, đều có chỉ định khô vằn/lúa.
    danh mục thuốc khô vằn mới

Bên cạnh đó là “họ Validamycin” gắn với chữ “Vali-” và “Viva-”:

  • Valitigi 3SL, Valigreen 50SL/100WP, Valivithaco 3SL/5SC/5WP, Valinhut 5SL, Vallistar 5SL/10WP, Valygold 5SL, Vamylicin 5WP, Vanicide 5SL/5WP, Varison 5WP, Vida 3SC/5WP, V-cin 5SL, Vivadamy 5SL/5SP, Voalyđacyn-nhật 5SL, Yomivil 108SC/115WG… – tất cả đều đăng ký khô vằn/lúa.

Vì sao nhóm này được xem là “tiệm cận sinh học”?

  • Validamycin/Jinggangmycin là kháng sinh do vi khuẩn đất sinh ra, được nuôi cấy rồi chiết tách, nên thường được xếp gần với thuốc sinh học – kháng sinh hơn là thuốc hoá học tổng hợp thuần túy. 

  • Tác động chọn lọc lên nấm khô vằn, ít ảnh hưởng đến côn trùng thiên địch và môi trường nếu dùng đúng liều. 

Có thể nói:

“Các thuốc gốc Validamycin/Jinggangmycin như Valitigi, Valigreen, Vanicide, Vivadamy, Damycine, Haifangmeusu… là nhóm kháng sinh chuyên trị khô vằn, phù hợp khi muốn giảm bớt phụ thuộc vào thuốc hóa học nặng đô.”

 

5. Nhóm sinh học – thảo mộc – kích kháng trị khô vằn: TP-Zep, Bacla, Som, Stargolg

Đây là khu vực rất đáng khai thác nếu bạn muốn bài viết “bắt trend” nông nghiệp xanh:

5.1. Thuốc từ dầu thực vật – TP-Zep 18EC

  • TP-Zep 18EC: hoạt chất là tổ hợp dầu màng tang, dầu sả, dầu hồng, dầu hương nhu, dầu chanh, trên nhãn có luôn đạo ôn, bạc lá, lem lép hạt, đốm sọc vi khuẩn, khô vằn/lúa…
    danh mục thuốc khô vằn mới

Gợi ý cách kể:

  • Có thể giới thiệu như “một chai dầu thực vật đa năng cho cây lúa”, phù hợp dùng xen kẽ với thuốc hóa học hoặc giai đoạn bệnh mới chớm, muốn giảm tồn dư.

 

5.2. Thuốc kích kháng – Acid salicylic: Bacla 50SC

  • Bacla 50SC – hoạt chất Acid salicylic, đăng ký bạc lá, khô vằn/lúa.
    danh mục thuốc khô vằn mới

Acid salicylic là chất do cây tự tạo ra khi bị tấn công, giúp kích hoạt “hệ miễn dịch” của cây. Bổ sung từ bên ngoài sẽ kích kháng, giúp cây lúa “tự khỏe lên” và giảm mức độ bệnh. 

 

5.3. Som 5SL, Stargolg 5SL – gốc hữu cơ/acid, nhiều bệnh cùng lúc

  • Som 5SL – chứa Acrylic acid + Carvacrol, được đăng ký đạo ôn, khô vằn, bạc lá/lúa, kèm nhiều bệnh trên rau màu.
    danh mục thuốc khô vằn mới

  • Stargolg 5SL – ghi khô vằn, bạc lá, lem lép hạt, đạo ôn/lúa; thán thư/ớt.
    danh mục thuốc khô vằn mới

Cả hai đều có thể xem là sản phẩm “lai” giữa thuốc trừ bệnh và chế phẩm hữu cơ, rất hợp khi xây dựng quy trình:

“Sinh học – kích kháng đầu vụ, kháng sinh Validamycin lúc bệnh tăng, phối trộn hóa học mạnh tay ở giai đoạn làm đòng – trổ.”

 

6. Một chi tiết thú vị: khô vằn không chỉ có trên lúa

Trong danh mục mới, khô vằn còn được ghi trên ngô với một loạt sản phẩm:

  • Environ 45SC, Azotide 30SC – Azoxystrobin + Thifluzamide, đăng ký khô vằn/ngô.
    danh mục thuốc khô vằn mới

  • Sparkup 800EC – Spiroxamine, cũng có khô vằn/ngô.
    danh mục thuốc khô vằn mới

  • ValXtra 7.5SC – Hexaconazole + Validamycin, ghi khô vằn/ngô.
    danh mục thuốc khô vằn mới

Một chi tiết thú vị:

“Khô vằn không chỉ ‘ăn’ bẹ lúa, mà còn ‘cắn’ cả thân ngô; vì vậy nhiều thuốc vừa dùng cho lúa, vừa được mở rộng nhãn sang ngô, giúp nhà nông có thêm lựa chọn khi luân canh lúa – ngô.”

 

7. Cách xây dựng quy trình “3 lớp bảo vệ” khô vằn 

Khi tư vấn, thay vì liệt kê khô khan, có thể áp dụng một “quy trình 3 lớp”:

Lớp 1 – Sinh học, kích kháng từ sớm

Giai đoạn lúa đẻ nhánh – đứng cái, ruộng từng bị khô vằn nặng:

  • Có thể phun Bacla 50SC, Som 5SL, TP-Zep 18EC, Stargolg 5SL để kích kháng – sát khuẩn nhẹ, giảm nguồn bệnh ban đầu.

 

Lớp 2 – Kháng sinh Validamycin/Jinggangmycin khi bệnh chớm rõ trên bẹ

Khi xuất hiện vệt nâu trên bẹ lá từng chòm, phun Validamycin/Jinggangmycin như:

  • Valitigi, Valigreen, Vanicide, Vivadamy, Damycine, Haifangmeusu, Javidacin, Jinggangmeisu… tùy vùng và thói quen.

 

Lớp 3 – Phối trộn hóa học mạnh tay ở giai đoạn làm đòng – trổ

Khi vừa lo khô vằn bẹ, vừa sợ đạo ôn cổ bông và lem lép hạt:

  • Dùng Amistar Top, Amylatop, Amity top, Ara-super, Anmisdotop, Anforli, Hexalazole, Newtec, Avinduc, Staragro… theo khuyến cáo từng hãng.

 

Tóm lại:

  1. Không dồn hết niềm tin vào một chai – luân phiên hóa học, kháng sinh, sinh học.

  2. Giảm đạm, giữ ruộng thông thoáng – đất ẩm, rậm, đạm nhiều là “thiên đường” của khô vằn. 

  3. Ưu tiên xu hướng xanh – xen kẽ Validamycin/Jinggangmycin với Bacla, Som, TP-Zep, Stargolg để vừa giữ hiệu lực, vừa phù hợp nhu cầu nông sản an toàn.

 

8. Mở rộng góc nhìn: xu hướng trị khô vằn mới trên thế giới

Phần trên là “đang có gì trong tay” theo danh mục thuốc khô vằn mới. Bây giờ ta mở rộng thêm: các nước mạnh về thuốc BVTV (Nhật, Hàn, châu Âu, Mỹ, Trung Quốc…) đang đi theo những hướng nào với bệnh khô vằn?

8.1. Hóa học thế hệ mới: SDHI và hỗn hợp liều thấp

Trên thế giới, ngoài nhóm strobilurin và triazole quen thuộc, các hãng lớn đang đẩy mạnh nhóm SDHI (succinate dehydrogenase inhibitor – thuốc chặn hô hấp của nấm ở ty thể) như:

  • Flutolanil, fluxapyroxad, benzovindiflupyr, isopyrazam, pydiflumetofen… – nhiều hoạt chất trong số này cho hiệu lực rất cao, thời gian giữ thuốc dài và tính chọn lọc tốt với nấm gây bệnh. 

  • Tại Trung Quốc, nghiên cứu cho thấy Rhizoctonia solani rất nhạy với isopyrazam, với nồng độ ức chế EC₅₀ chỉ khoảng 0,002–0,03 µg/mL – tức là dùng liều rất thấp vẫn hiệu quả. 

Song song đó, nhiều nước (nhất là Ấn Độ) đang dùng các hỗn hợp mới Azoxystrobin + Tebuconazole, liều khoảng 1,5 ml/l, cho hiệu quả giảm tỷ lệ khô vằn rõ rệt ngoài đồng. 

Điểm chung về xu hướng:

  • Ít lần phun, liều thấp, phối trộn nhiều hoạt chất khác nhóm, thay vì một hoạt chất phun đi phun lại.

  • Tổ chức FRAC cảnh báo nguy cơ kháng SDHI, nên các nước luôn kèm hướng dẫn: giới hạn số lần phun trong một vụ, không dùng SDHI đơn lẻ hết vụ, mà luân phiên với nhóm khác. 

Xét lại danh mục thuốc khô vằn mới, ta thấy: các hỗn hợp Azoxystrobin + Difenoconazole/Hexaconazole/Tricyclazole (Amistar Top, Amity top, Anforli, Staragro…) đang đi đúng hướng “hỗn hợp – đa điểm tác động” giống thế giới, dù chưa có đầy đủ các SDHI mới.

 

8.2. Sinh học “đúng nghĩa”: vi khuẩn, nấm đối kháng, nội sinh

Trên thế giới, sinh học trị khô vằn không chỉ là “phân bón lá hữu cơ”, mà là các chủng vi sinh được tuyển chọn rất kỹ:

  • Bacillus subtilis RH5: nhiều nghiên cứu cho thấy chủng này ức chế mạnh sự phát triển của R. solani và giảm rõ rệt mức độ khô vằn trên lúa ngoài đồng. 

  • Các chủng Bacillus sp. nội sinh trong thân/rễ lúa (endophyte) khi xử lý cho cây có thể giảm trên 60% tỷ lệ bệnh và tăng năng suất hơn 30% trong một số thử nghiệm. 

  • Trichoderma harzianum, T. viride: nhiều thí nghiệm in vitro và ngoài đồng cho thấy Trichoderma có khả năng “quấn, ký sinh, tiết enzyme” phá vách tế bào nấm khô vằn, giúp giảm mạnh sức sống của mầm bệnh. 

  • Pseudomonas fluorescens và các Pseudomonas khác: vừa tiết kháng sinh, vừa kích thích rễ lúa phát triển, đồng thời kích hoạt cơ chế kháng toàn thân chống lại khô vằn và một số bệnh khác. 

Các nước như Ấn Độ, Nhật, Trung Quốc… đã thương mại hóa khá nhiều chế phẩm Bacillus, Pseudomonas, Trichoderma dạng bột, hạt hoặc dịch treo, đăng ký rõ là thuốc BVTV sinh học chứ không chỉ là phân bón.

Gần đây, các nhà khoa học còn nghiên cứu mycovirus (virus tấn công nấm), coi đó là “kẻ thù của kẻ thù” – một dạng sinh học cực kỳ xanh để khống chế R. solani. 

 

8.3. Chất “kích miễn dịch” – từ BABA, SA đến isotianil, tiadinil

Một hướng nữa trên thế giới là không diệt nấm trực tiếp, mà “lên dây cót” cho hệ miễn dịch của cây lúa:

  • BABA (β-aminobutyric acid): được chứng minh có thể kích hoạt kháng cảm ứng (induced resistance) ở lúa, giúp cây tự chống đỡ tốt hơn với khô vằn. 

  • Acid salicylic (SA)benzothiadiazole (BTH): nhiều nghiên cứu cho thấy phun SA/BTH có thể giảm nhẹ đến vừa phải khô vằn, đồng thời hỗ trợ kháng bệnh đạo ôn. 

  • Các plant activator như isotianil, tiadinil do Nhật phát triển có cơ chế chính là kích hoạt kháng toàn thân (SAR), được dùng rất rộng cho bệnh đạo ôn, và đang được xem xét trong chiến lược quản lý tổng thể khô vằn – vì cây khỏe hơn, tán lá đứng hơn, ít “mập nước” nên bệnh khó bùng phát. 

Điểm chung của nhóm kích kháng:

  • Liều rất thấp, ít để lại tồn dư.

  • Khó hình thành kháng vì chúng không tấn công trực tiếp nấm, mà “gây men” hệ phòng vệ của cây.

  • Kết hợp tốt với thuốc sinh học và thuốc hóa học: dùng kích kháng đầu – giữa vụ, thuốc đặc trị dùng đúng thời điểm cao điểm áp lực bệnh.

Trong danh mục thuốc khô vằn mới, các chế phẩm như Bacla 50SC (acid salicylic), Exin/nhóm SA, TP-Zep, Som, Stargolg… chính là “gạch nối” khá rõ giữa xu hướng này của thế giới và thực tế Việt Nam.

 

8.4. Công nghệ phun mới: máy bay không người lái (UAV), tối ưu liều

Ở các nước trồng lúa lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia, Hàn Quốc…, phun thuốc bằng UAV (drone) đang trở thành chuẩn mới trong nhiều cánh đồng:

  • Các nghiên cứu gần đây cho thấy khi phun flutolanil, orysastrobin, fludioxonil… bằng UAV, nếu tối ưu kích thước giọt, độ cao bay và tốc độ, thì chỉ cần 1/4 liều khuyến cáo vẫn đủ khống chế khô vằn ngoài đồng

  • Một số nghiên cứu so sánh drone với bình đeo vai cho thấy hiệu lực phòng trừ bệnh (trong đó có khô vằn) tương đương, nhưng drone tiết kiệm nước, tiết kiệm nhân công và giảm tiếp xúc thuốc cho người phun

  • Ở Ấn Độ, SOP về phun drone cho lúa đã thử nghiệm hỗn hợp Tebuconazole + Trifloxystrobin và chỉ ra liều thích hợp vừa cho hiệu quả bệnh tốt vừa đảm bảo an toàn thiên địch. 

Nói ngắn gọn: thế giới không chỉ thay đổi “chai thuốc”, mà thay đổi luôn “cách đưa thuốc ra ruộng” – đi theo hướng chính xác hơn, ít lãng phí hơn.

 

8.5. Mẫu số chung của xu hướng thế giới

Nếu gom lại các hướng nghiên cứu và ứng dụng, có thể tóm nhanh vài điểm:

  1. Quản lý tổng hợp là bắt buộc

    • Sheath blight được xếp là một trong các bệnh hại lúa quan trọng nhất toàn cầu, không nước nào kỳ vọng “một chai thuốc là xong”. 

    • Các khuyến cáo hiện đại đều nhấn mạnh: giống phù hợp, mật độ hợp lý, bón phân cân đối, nước – tàn dư rơm rạ + sinh học + hóa học + kích kháng phối hợp. 

  2. Hóa học đi theo hướng “ít mà chất”

    • Phát triển SDHI mới và các hỗn hợp 2–3 hoạt chất, ưu tiên thuốc hiệu lực cao, bền, nhưng dùng ít lần, liều thấp

  3. Sinh học là “người chơi chính”, không còn là phụ

    • Bacillus, Pseudomonas, Trichoderma, endophyte… được coi là trụ cột trong nhiều mô hình nông nghiệp bền vững, chứ không phải “phụ gia”. 

  4. Kích kháng + công nghệ (drone, cảm biến, AI)

    • Plant activator (isotianil, tiadinil, BTH, SA, chitosan…) và drone giúp chuyển từ tư duy “thấy bệnh mới xịt” sang “chủ động phòng từ đầu, phun trúng chỗ, đúng lúc”

 

8.6. Gợi ý nhỏ: nối xu hướng thế giới với danh mục thuốc khô văn mới

Nhìn lại toàn bộ bài và DM 2025, có thể “gài” một đoạn kết:

  • Việt Nam đã có sẵn:

    • Nhóm kháng sinh Validamycin/Jinggangmycin – phù hợp xu hướng giảm phụ thuộc hóa học nặng.

    • Các sản phẩm kích kháng, thảo mộc, gốc acid hữu cơ như Bacla 50SC, Som 5SL, TP-Zep 18EC, Stargolg 5SL… – tiệm cận hướng plant activator và chế phẩm sinh học.

  • Phần còn thiếu, nhiều khả năng trong tương lai sẽ được bổ sung dần, là một số SDHI mớichế phẩm Bacillus/Trichoderma nội địa hóa, khi doanh nghiệp trong nước bắt tay với đối tác Nhật – châu Âu – Hàn để chuyển giao.

Kết luận

“Nếu giai đoạn trước chúng ta quen với một chai Validamycin cho cả vụ, thì giai đoạn tới sẽ là cuộc chơi của bộ ba: sinh học – kích kháng – hóa học thế hệ mới, kết hợp thêm công nghệ drone và tưới – bón thông minh. Khô vằn vẫn khó, nhưng cơ hội quản lý nó một cách bền vững đang rõ hơn bao giờ hết.”

blog-img
blog-img
blog-img
blog-img
blog-img
blog-img
blog-img
blog-img
blog-img
blog-img
blog-img